Trước tình hình trên, các bộ, ngành, cấp uỷ đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội đã triển khai nhiều giải pháp, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, trong đó: Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia đã ban hành Công điện số 256 ngày 07/6/2023 về việc tăng cường bảo đảm an toàn giao thông cho học sinh. Bộ Công an đã tham mưu lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương chỉ đạo quan trọng trong công tác bảo đảm TTATGT; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo ký kết Chương trình phối hợp số 11 ngày 19/10/2022 về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT trong các cơ sở giáo dục giai đoạn 2022 – 2025; chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương triển khai đồng bộ quyết liệt nhiều giải pháp, chủ động nắm tình hình, xây dựng, triển khai các kế hoạch, phương án bảo đảm TTATGT...
Thực hiện Chương trình phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Giáo dục & Đào tạo, lực lượng Công an đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT cho học sinh tại 18 nghìn cơ sở giáo dục với 9 triệu lượt học sinh tham gia; tổ chức ký cam kết chấp hành nghiêm pháp luật TTATGT đối với 18 nghìn cơ sở giáo dục, với hơn 8 triệu học sinh, phụ huynh thực hiện ký cam kết.
Tình trạng học sinh vi phạm pháp luật về an toàn giao thông hiện nay ngày càng phổ biến và có nhiều diễn biến phức tạp, nguyên nhân đã được lực lượng chức năng chỉ rõ:
1. Hiện tượng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông đi học bằng phương tiện xe máy điện, xe máy, xe mô tô, không đội mũ bảo hiểm, dàn hàng ngang, chạy quá tốc độ, vượt ẩu, lạng lách, đánh võng, gây rối trật tự công cộng, không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông, kéo đẩy xe khác, sử dụng điện thoại khi điều khiển phương tiện, đặc biệt là điều khiển phương tiện khi chưa có giấy phép lái xe đang diễn ra khá phổ biến, làm gia tăng nguy cơ tai nạn giao thông. Qua số liệu cho thấy lỗi vi phạm học sinh chưa đủ tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy chiếm 47,59% và hệ quả là tai nạn giao thông liên quan điều khiển xe trên 50 phân khối chiếm 71,31%.
2. Việc tổ chức giao thông tại khu vực các cổng trường học hiện nay đang có nhiều vấn đề đặt ra: ùn tắc giao thông vào giờ đến trường, tan học; nhiều trường học có vị trí gần hoặc nằm dọc các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, gần khu họp chợ; bên cạnh đó tình trạng phụ huynh đưa, đón con đến trường cũng vi phạm các quy định của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông (như dừng đỗ xe lấn chiếm cả lòng đường, lề đường đứng chờ con, chen lấn nhau di chuyển không tuân theo quy tắc giao thông)… những vi phạm này tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến các vụ tai nạn giao thông, gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông và cho chính bản thân các em học sinh. Nhiều điểm đen, điểm tiềm ẩn xảy ra tai nạn giao thông khu vực trường học được xác định nhưng chưa được khắc phục kịp thời.
3. Việc phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội để quản lý, giáo dục học sinh chấp hành pháp luật về TTATGT còn chưa hiệu quả, một bộ phận còn thiếu trách nhiệm dẫn đến khi học sinh ra khỏi nhà thì gia đình xem là việc của xã hội, của nhà trường; khi học sinh ra khỏi trường thì nhà trường xem là việc của xã hội, của gia đình.
4. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn chung chung, hình thức chưa thực sự tác động hiệu quả đến đối tượng đặc thù là học sinh.
5. Công tác giáo dục an toàn giao thông đã được các cơ sở giáo dục lồng ghép vào trong chương trình chính khóa nhưng chưa có khung chương trình chuẩn cho từng cấp học; các nội dung học về an toàn giao thông chưa được thể hiện rõ nét trong nội dung thi và kiểm tra đánh giá, dẫn tới tình trạng học nhưng không thi do đó các nội dung này cũng chưa được học sinh và phụ huynh quan tâm; những tài liệu giáo dục an toàn giao thông ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo chưa nhiều, dẫn đến học sinh chưa ghi nhớ thành kiến thức lâu dài; các nội dung giảng dạy trong trường học cơ bản giới hạn ở phần lý thuyết, khối lượng thực hành còn hạn chế, do các trường không có đủ điều kiện để thực hiện; phần thực hành kỹ năng tham gia giao thông và điều khiển các phương tiện của học sinh chủ yếu phụ thuộc vào việc quan tâm giảng dạy của cha mẹ học sinh, người giám hộ, trong khi đó một số gia đình chưa quan tâm, còn phó mặc cho con em mình tự tìm hiểu, tự thực hành dẫn tới thiếu kỹ năng thực hành.
6. Một bộ phận phụ huynh, người giám hộ còn thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong quản lý con cái (qua thống kê, hơn 71% vụ tai nạn giao thông liên quan đến học sinh là do điều khiển xe mô tô trên 50 phân khối, đây là hệ quả của việc cha mẹ giao xe cho học sinh điều khiển không đúng quy định); chưa nêu gương trong chấp hành nghiêm các quy định về TTATGT khi tham gia giao thông, nhất là trong khi chở con em mình trên xe (như: Chở trẻ em không đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ, sử dụng rượu bia khi lái xe...) dẫn tới làm ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức và hành vi của các em.
7. Việc xử lý vi phạm khi phát hiện hành vi vi phạm với học sinh còn gặp khó khăn, do công tác phối hợp giữa lực lượng chức năng với nhà trường (chưa có các quy định rõ ràng về đầu mối tiếp nhận thông tin vi phạm TTATGT của học sinh đối với nhà trường, quy trình xử lý trong nhà trường, chuyển thông tin cho gia đình cùng giáo dục, trách nhiệm của gia đình...).
8. Một số địa phương buông lỏng quản lý hoạt động vận chuyển, đưa đón học sinh dẫn tới các vụ TNGT liên quan tới dịch vụ đưa đón học sinh (như vụ TNGT tại Đồng Nai tháng 2/2023 một xe đưa đón học sinh trong khi lùi xe làm 1 học sinh lớp 3 tử vong).
9. Mặt trái của internet và các trang mạng xã hội đã tác động tiêu cực đến nhận thức, hành vi của giới trẻ hiện nay, trong khi đó nhiều người trưởng thành, thậm chí người nổi tiếng, người có ảnh hưởng trong xã hội có những hành vi không chuẩn mực, quay clip đua xe, bốc đầu, đánh võng đăng tải lên mạng xã hội nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng rất không tốt đến giới trẻ.
(Nguồn: bocongan.gov.vn)
Ý kiến bạn đọc